Những vấn đề của lao tiền liệt tuyến
Lao tiền liệt tuyến chủ yếu là một bệnh lao có tính kế phát, rất ít phát sinh đơn độc, thường đồng thời có kèm theo lao tinh nang, lao ống dẫn tinh, lao túi chứa tinh trùng và lao tinh hoàn.
- Tuổi phát bệnh: Phần nhiều thấy ở những thanh tráng niên thòi kì thành thục, độ tuổi 20 ~ 40. Có một số* ít tiền liệt tuyến của người già tăng sinh đồng thời với bội nhiễm bệnh lao.
- Triệu chứng trúng độc của bệnh lao: Có các biểu hiện toàn thân như sốt nhẹ, người mệt mỏi rã rồi, thể trọng hạ thấp, người gầy yếu.
- Triệu chứng ở đường tiết niệu: Thời kì đầu có thể không thấy có triệu chứng rõ rệt, khi có biến đổi bệnh lí ở cổ bàng quang có thể xuất hiện tiểu tiện nhiều lần, mót tiểu tiện gấp gáp, đau buốt khi tiểu tiện, kèm theo khó chịu ỏ thắt lưng, đau thắt lưng, nước tiểu vẩn đục, đường niệu có thể thấy lượng ít chất tiết ra. Xét nghiệm thường qui nước tiểu và kiểm tra prostaticíluid có thể tìm ra được trực khuẩn lao.
- Sự biến đổi công năng sinh dục: Khi biến đổi bệnh lí xâm phạm vào tinh nang, có thể xuất hiện thay đổi công năng sinh dục, như ham muốn tình dục suy giảm, liệt dương, xuất tinh sớm, lượng tinh giảm thiểu, sô” tinh trùng ít, có khi xuất hiện máu trong tinh dịch, đau buốt khi phóng tinh. Nếu cả hai hiện tượng này đồng thòi tồn tại, chứng tỏ tinh hoàn có lở loét do bị bệnh lao, ổ bệnh khi phóng tinh xuất huyết. Người bệnh nghiêm trọng có thể sưng mưng mủ do lao tiền liệt tuyến, vỡ loét chảy vào túi chứa tinh hoàn và vào âm bộ, hình thành đường hốc hõm ở túi chứa tinh hoàn và hội âm.
Trên lâm sàng, lao tiền liệt tuyến đa số là quá tinh nang lại lây lan sang tiền liệt tuyến, cho nên lao tiền liệt tuyến tồn tại đồng thời với lao tinh nang. Đối với công năng sinh dục của người bệnh suy giảm, như liệt dương, xuất tinh sớm, v.v… cần dùng thuốc chông lao, xử lí theo viêm tiền liệt tuyến mạn tính. Lao tiền liệt tuyến, lao tinh nang nói chung không cần phẫu thuật, mà cần điều trị nội khoa.
Lao tiền liệt tuyến phần nhiều phát sinh ở những người bệnh đã thành thục sinh dục, ở độ tuổi 20 ~ 40. Trên lâm sàng, lao tiền liệt tuyến rất ít phát bệnh đơn độc, trực khuẩn lao qua đường niệu xuống đến đường niệu sau, thông qua miệng ống tiền liệt tuyến và ống phóng tinh tiến vào tiền liệt tuyến và tinh nang, gây nên niêm dịch hạ và hình thành ổ bệnh trong tuyến thể. Do triệu chứng trúng độc lao, người bệnh có sốt nhẹ, toàn thân mệt mỏi rã rời, tinh thần suy xụp. Lao là bệnh mạn tính, bệnh trình dài, có biểu hiện kích thích ở đường niệu, làm cho tinh thần người bệnh trong trạng thái lo âu, sỢ bệnh của bản thân không thể khỏi được, tâm tình phiền muộn, lâu ngày phát sinh liệt dương.
Lao tiền liệt tuyến và lao tinh nang hầu như đồng thời tồn tại, người bệnh có thể có suy giảm ham muốn tình dục, di tinh, xuất tinh sớm, thậm chí có máu trong tinh dịch. Bị lao tiền liệt tuyến nghiêm trọng có thể có hình thành sưng mưng mủ, khi vỡ, mủ chảy vào hội âm, vào túi chứa tinh hoàn. Sau khi bị vỡ mủ do sưng mưng mủ khi bị lao rất khó lành miệng vết thương, từ đường hốc hõm chảy ra dịch mủ, có mùi tanh thối, gây nên cho sinh hoạt của người bệnh rất nhiều bất tiện, đó là một trong những nguyên nhân khác tạo thành liệt dương.
Khi lao tiền liệt tuyến bội nhiễm lao tinh hoàn, lao túi chứa tinh trùng, do lao tinh hoàn hình thành hoại tử dạng pho mát, làm cho tinh hoàn mất đi công năng sinhdục bình thường là tiết ra testosterone, khiến mức testosterone hạ thấp, kích thích hệ thông khâu não dưới yà tuyến yên, tạo thành trỏ ngại tiết ra kích tô” của hệ thông nội tiết và công năng điều tiết, từ đó mà dẫn đến liệt dương.
Ngoài ra, khi bị lao ở bộ máy sinh sản, việc ứng dụng thuốc chống lao có hại đối với công năng của gan, tế bào gan bị tổn hại, công năng giải độc của gan và công năng diệt sự sống của kích tô” bị ảnh hưởng, làm cho mức estrogen lên cao, cũng là một trong những nguyên nhân phát sinh liệt dương khi bị lao tiền liệt tuyến.
Tóm lại, người bệnh lao tiền liệt tuyến phát sinh liệt dương, nguyên nhân có nhiều và phức tạp, có thể nói là kết quả của rất nhiều nhân tô” cùng tác dụng, trong đó có nhân tô” tinh thần, nhưng bệnh này vẫn chủ yếu là lao bộ máy sinh sản dẫn đến biến đổi có tính khí chất, cho nên trong điều trị phải trước hết là trừ bỏ nguyên nhân gây bệnh.